Cùng Tiến sĩ Đỗ Anh Vũ luận bàn 10 cái tên của hổ

14:22 | 12/03/2022

DNTH: Tiến sĩ Đỗ Anh Vũ có lẽ là một cái tên không còn xa lạ, nhất là những người yêu thích ngôn ngữ học Việt Nam… và được quen biết anh chính là một cái duyên thiện lành mà tôi có được!

Nói thật là, khi biết anh Đỗ Anh Vũ, tôi cũng không tò mò quá nhiều về đời tư của anh, chỉ biết rằng anh rất giỏi về chuyên môn và là một Tiến sĩ ngôn ngữ học. Có một lần tôi cần tìm một lời giải đáp để minh chứng cho lựa chọn sử dụng ngôn từ của tôi là đúng? Thực ra, tôi không sợ mình sai, nhưng tôi cần tìm một đồng minh đủ sức nặng để mình có thể phản biện lại… và tôi được giới thiệu nên tìm đến Đỗ Anh Vũ.

Và người giới thiệu cho tôi thật có tâm, bởi dù chưa biết tôi là ai, chỉ qua lời giới thiệu sơ qua và những câu hỏi của tôi, anh Đỗ Anh Vũ đã rất cởi mở và chỉ cho tôi một vài thông tin cơ bản, đủ để tôi thấy tự tin hơn. Qua những lần trao đổi, tôi cảm thấy mình thật may mắn, khi có thêm một người bạn lớn như vậy.

Nếu nói về việc sử dụng ngôn ngữ thì Tiến sĩ Đỗ Anh Vũ là một trong những người hóm hỉnh nhưng sâu sắc… bởi anh vốn là dân ngôn ngữ học không những “xịn” mà còn là người nghiên cứu chuyên sâu, phê bình, dịch thuật… và tìm ra những thứ “lấp lánh” đằng sau những ngôn từ tưởng chừng mộc mạc ấy…

Và dưới đây là luận bàn 10 cái tên về hổ được Tiến sĩ Đỗ Anh Vũ đưa ra, xin trân trọng gửi tới quý độc giả để hiểu thêm về một con vật – dũng mãnh, đầy uy lực trong 12 con giáp.

Theo Tiến sĩ Đỗ Anh Vũ, trong 12 con vật của hệ can chi, con hổ tuy được xếp ở vị trí thứ ba nhưng lại có thể xem là con vật đứng hàng đầu về uy lực và sức mạnh (trừ rồng - con vật được hư cấu). Hổ đồng thời cũng là con vật có tính hoang dã nổi trội nhất trong mười hai con giáp. Nhưng điều đặc biệt hơn cả mà anh nhận thấy, hổ còn là con vật có tên gọi phong phú nhất so với tất cả các con vật còn lại trong bảng can chi.

Đầu tiên phải kể đến cái tên phổ biến nhất, có thể được xem như một mẫu gốc, lại có nguồn gốc từ tiếng Hán. Chữ hổ (虎) được chiết tự là sự mô phỏng hình dáng của chính con hổ đang ngồi quỳ. Một nét sổ và một nét ngang bên trên là hai cái tai của nó, ở giữa là đầu và miệng đang há to. Phía dưới là hai cái chân (đùi) trước, bên trái một nét phẩy là cái thân và cái đuôi. Cũng có người chiết tự chữ hổ gồm bộ hô và bộ nhi. Trong đó, chữ bộ hô nghĩa là hình những đường vằn trên lưng con hổ còn bộ nhi thì giống như người đang đi.

Theo anh, chữ hổ gắn liền với sức mạnh, sự quyết liệt, dữ dội, oai phong, có lẽ vì thế mà nó cũng được chọn để đặt cho tên người. Nhiều danh sĩ của Việt Nam thời trung đại có tên Hổ dù không phải sinh năm hổ phải kể tới là Lê Như Hổ sinh năm 1511 (tuổi Tân Mùi), tại làng Tân Châu, huyện Tiên Lữ, tỉnh Hưng Yên, thi đỗ Tiến sĩ năm Quang Hòa thứ nhất đời Vua Mạc Phúc Hải, làm quan đến chức Thượng thư, được phong hàm Thiếu bảo, tước Tuấn Quận công, mất năm 1581, thọ 71 tuổi. Hay như một nhân vật nổi tiếng khác sống vào nửa cuối thế kỷ 18, nửa đầu thế kỷ 19 là Phạm Đình Hổ vốn là tuổi Mậu Tí (sinh năm 1768), làm quan đến chức Tế tửu Quốc Tử Giám dưới triều Vua Minh Mệnh. Ông là tác giả của nhiều cuốn sách có giá trị như: Vũ Trung tùy bút, Tang thương ngẫu lục và nhiều tập thơ chữ Hán. Phạm Đình Hổ cũng được cho là người đã để lại nhiều giai thoại văn học trong đối đáp với bà chúa thơ Nôm Hồ Xuân Hương. Một nhân vật gần với thời hiện đại hơn cả là Tăng Bạt Hổ cũng vốn là người tuổi Mậu Ngọ (1858), là chí sĩ Việt Nam tham gia chống Pháp nửa cuối thế kỷ 19, nửa đầu thế kỷ 20.

Có thể nói, chữ “hổ” đi vào nhiều thành ngữ tục ngữ quen thuộc trong đời sống người Việt như: “thả hổ về rừng; cầm gươm đằng lưỡi cưỡi hổ đằng đầu; chim cùng thì mổ hổ cùng thì vồ; đuổi hổ cửa trước rước beo cửa sau; hổ chết để da người ta chết để tiếng”. Một số đơn vị tục ngữ khác do người Việt vay mượn từ tiếng Hán nhưng cũng được sử dụng tương đối nhiều và trở thành quen thuộc như: “hổ phụ sinh hổ tử; nam thực như hổ, nữ thực như miêu; họa hổ họa bì nan họa cốt”. Các câu tục ngữ thành ngữ vừa kể, dẫu ý nghĩa khác nhau nhưng có thể dễ dàng nhìn thấy một mẫu số chung, đó là sự công nhận con hổ như một sức mạnh nguy hiểm khiến người ta phải kiêng dè, e sợ, đề phòng. Trong nhiều trường hợp, sức mạnh khả năng của con hổ được so sánh, ví von với những thành tựu, kết quả của con người và được thừa nhận như một giá trị.

Trong thơ ca Việt Nam hiện đại, nhắc đến con hổ là phải nhớ tới thi phẩm nổi tiếng của nhà thơ Thế Lữ mang tên “Nhớ rừng”, như một ẩn dụ kín đáo về lòng yêu nước trong thời kỳ Thơ Mới (1932 - 1945). Ông mượn lời con hổ trong vườn bách thú để bày tỏ nỗi nhớ tiếc về những tháng ngày tự do, được tung hoành giữa đại ngàn:

“Nào đâu những đêm vàng bên bở suối

Ta say mồi đứng uống ánh trăng tan

Đâu những ngày mưa chuyển bốn phương ngàn

Ta lặng ngắm giang san ta đổi mới

Đâu những bình minh cây xanh nắng gội

Tiếng chim ca giâc ngủ ta tưng bừng

Đâu những chiều lênh láng máu sau rừng

Ta đợi chết mảnh mặt trời gay gắt

Để ta chiếm lấy riêng phần bí mật

Than ôi! Thời oanh liệt nay còn đâu…?

Hai cái tên thuần việt khác của con hổ theo anh, là hùm và cọp. Trong đó, hùm còn có một tên gọi chệch khác là hầm (là nơi giống hầm thiêng ta ngự trị - Nhớ rừng, Thế Lữ) có thể được xem là một từ mô phỏng âm thanh (tiếng gầm) của con hổ. Chữ hùm cũng đi vào nhiều thành ngữ tục ngữ của người Việt như: “cáo mượn oai hùm, hùm dữ không ăn thịt con; vuốt râu hùm; sợ hùm sợ cả cứt hùm”.

Cái tên hùm cũng được đặt cho một nhà cách mạng khá nổi tiếng của nước ta nửa đầu thế kỷ 20 là Phan Văn Hùm, sinh năm Nhâm Dần (1902), mất năm Bính Tuất (1946), là lãnh tụ phong trào Cộng sản Đệ Tứ. Từng tốt nghiệp đại học và cao học ở Đại học Sorbonne (Paris), Phan Văn Hùm là tác giả của nhiều tác phẩm khảo cứu có giá trị như: “Phật giáo triết học; Tiền bạc (khảo cứu về tiền tệ) và Biện chứng pháp phổ thông”.

Nếu như chữ hùm (hầm) được coi là mô phỏng về âm thanh (tiếng con hổ) thì chữ cọp lại được xem là mô phỏng về những bước chân nặng, bi hiểm, chứa đựng nhiều đe dọa của loài mãnh thú. Bài “Tây Tiến” của thi sĩ Quang Dũng có một câu thơ đặt hai dấu nặng cạnh nhau, trong đó có một chữ cọp, được nhiều người cho là mô phỏng cho những bước chân đầy sự hăm dọa này:

“Đêm đêm mường Hịch cọp trêu người…”

Tục ngữ Việt cũng có một đơn vị sử dụng chữ cọp: “ki cóp cho cọp nó xơi hoặc ki cóp cho cọp nó tha”. Có một tên gọi khác của con hổ, cũng mang gốc thuần Việt nhưng ngày nay ít dùng, đó là kễnh (còn có một biến âm là hếnh). Với khuôn vần “ênh”, kễnh cũng có thể xem là một từ ít nhiều mang tính chất mô phỏng cho dáng hình to lớn của con hổ. Ta có thể đặt “kễnh” trong một trường các từ tương tự như: kềnh, kềnh càng, kênh, công kênh, lênh khênh, khệnh để thấy điều này.

Trong đời sống sử dụng ngôn ngữ của người Việt, từ “ông kễnh” ngoài việc dùng để chỉ con hổ còn được dùng để chỉ những kẻ có vẻ ngoài bộc lộ ngạo mạn, trịch thượng, muốn bắt người khác phải phục vụ mình. Chữ “kễnh” chỉ con hổ cũng đi vào một số câu ca dao:

“Mèo tha miếng thịt thì đòi

Kễnh tha con lợn mắt coi trừng trừng”

Khái cũng được xem là một từ chỉ con hổ nhưng có phạm vi hoạt động hẹp hơn, thuộc về phương ngữ của một số vùng miền Trung. Thành ngữ tục ngữ có các câu:

“Đi rừng gặp khái, sợ khái không thà sợ cứt khái; khái tha ma bắt”.

Trong tiếng Việt, còn có một từ “khái” với ý nghĩa “cứng cỏi, mạnh mẽ, không chịu khuất phục”. Ta có các đơn vị như: khí khái, khái tính. Anh cho rằng, chữ “khái” (tính từ) này có những liên hệ phái sinh nhất định về mặt ý nghĩa so với chữ “khái” (danh từ) chỉ con hổ.

Ở những thông tin luận bàn trên, Tiến sĩ Đỗ Anh Vũ đã nói đến những tên gọi dành cho con hổ với cấu trúc là một từ đơn. Bên cạnh đó, còn phải nói đến các diễn đạt về con hổ với cấu trúc của một cụm từ, bao gồm: “chúa sơn lâm và ông ba mươi”. Trong tên gọi chúa sơn lâm, cả ba thành tố đều mang gốc Hán. Chữ “chúa” là một cách đọc khác của chữ “chủ” với ý nghĩa là người đứng đầu, người quyết định mọi việc cốt yếu trong một tập thể. Hai chữ sơn lâm (núi rừng) chỉ phạm vi không gian hoạt động. Dùng cụm từ “chúa sơn lâm” để chỉ con hổ, cộng đồng sử dụng ngôn ngữ một lần nữa khẳng định về sức mạnh và uy quyền của con hổ trong mối tương quan với tất cả các loài động vật hoang dã sinh sống ở núi rừng. Chữ “chúa” và chữ “sơn lâm” đều xuất hiên trong bài thơ “Nhớ rừng” của Thế Lữ:

“Nhớ cảnh sơn lâm bóng cả cây già

Với tiếng gió gào ngàn với giọng nguồn hét núi…

Ta biết ta chúa tể của muôn loài

Giữa chốn thảo hoa không tên không tuổi....”

Còn với trường hợp “ông ba mươi”,  theo anh có hơn một cách lí giải khác nhau. Trong bộ sách Kho tàng truyện cổ tích Việt Nam do Nguyễn Đổng Chi biên soạn, có câu chuyện mang tên Phạm Nhĩ hay là sự tích ông ba mươi. Truyện kể về một vị thần trên trời tên là Phạm Nhĩ, có sức khỏe vô song và nhiều tài phép thần thông. Vì giỏi hơn rất nhiều vị thần khác nên Phạm Nhĩ ngày càng tỏ ra kiêu căng tự phụ, dẫn tới khinh nhờn Ngọc Hoàng và yêu cầu Ngọc Hoàng phải nhường ngôi cho mình. Nhiều tướng lĩnh nhà trời được cử ra thi đấu đều thảm bại dưới tay Phạm Nhĩ. Sau cùng, Ngọc Hoàng phải mời Đức phật đến thu phục. Sau khi Phạm Nhĩ thua trận, Ngọc Hoàng sai cắt bỏ đôi cánh để ông bớt sức mạnh và đầy ông xuống trần gian. Tuy nhiên, mỗi khi vùng nào có người săn được hổ, ngoài việc người thợ săn được thưởng ba mươi quan tiền thì Vua cũng bắt người đó phải chịu ba mươi hèo để vong hồn Phạm Nhĩ được thỏa mà không tác quái nữa. Con hổ từ đó còn có tên là ông ba mươi.

Một vùng khác lại tương truyền câu chuyện cổ về cô gái giết hổ báo thù cho cha và anh. Cô giết được hổ nhưng bị thương rất nặng và không qua khỏi. Cô gái sau đó đã được phong thần ở trên trời. Cảm động về lòng hiếu nghĩa và dũng cảm của cô, Ngọc Hoàng cho cô mỗi năm vào đúng đêm ba mươi Tết được về thăm nhà, thăm mẹ và các em. Đến sáng mùng Một thì cô lại bay lên thượng giới. Vì điển tích này mà con hổ có thêm tên gọi ông ba mươi.

Ngoài ra, còn có một cách giải thích khác nữa về tên gọi “ông ba mươi”. Điều này gắn với tập tính kiếm ăn đêm của con hổ, nhất là khi con hổ xâm nhập vào khu vực người ở. Đêm ba mươi Tết trong tâm thức dân gian được coi là thời điểm bóng tối dày đặc nhất (tối như đêm ba mươi), cùng với tâm lý vừa sợ vừa đề phòng con hổ, đã dẫn đến cách nói “ông ba mươi” để chỉ con hổ. Có vùng còn gọi con hổ là “ông tối trời”.

Với các luận bàn của mình - Tiến sĩ Đỗ Anh Vũ cho biết, con hổ trong đời sống ngôn ngữ và văn hóa của người Việt có thể mang đến 10 cái tên như: “hổ, hùm, hầm, cọp, kễnh, hếnh, khái, dần, ông ba mươi, chúa sơn lâm, trong đó có 8 tên là từ đơn và 2 tên là cụm từ”. So với các con vật khác trong bảng can chi, hổ là con vật có nhiều tên gọi nhất (đứng vị trí thứ hai là con chó với 7 tên gọi: “chó, cún, cẩu, khuyển, mộc tồn, cầy, tuất”). Lí giải về việc có nhiều tên gọi của con hổ, anh cho rằng điều này bắt nguồn từ tâm lí e sợ, ngần ngại của con người khi phải đối diện với chúa sơn lâm.

Và để chốt lại những luận bàn về 10 cái tên của con hổ anh lí giải, đứng về quy luật ngôn ngữ học và tâm lý học mà xét, khi một khái niệm có nhiều tên gọi, có thể bắt nguồn từ hai nguyên nhân chính: “thứ nhất là tầm quan trọng, thân thuộc của sự việc/hành động/ khái niệm ấy trong đời sống con người. Thứ hai, là cộng đồng dân cư cố tình sử dụng nhiều tên gọi mang sắc thái nói giảm nói tránh vì một lí do nào đo gắn với tâm lý con người. Việc các động từ chỉ các hoạt động cơ bản như ăn uống, bài tiết, sinh hoạt vợ chồng… có nhiều tên gọi, chính là minh chứng rõ rệt cho quy luật tâm lí – ngôn ngữ ấy".

Tìm hiểu về con hổ với sự phong phú về tên gọi trong tiếng Việt cho ta một bức tranh thú vị và sống động về ngôn ngữ, văn hóa của cộng đồng; và với cách lý giải của Tiến sĩ Đỗ Anh Vũ, độc giả sẽ có thêm nhiều góc nhìn thú vị không chỉ là tên gọi của hổ mà còn là nhiều ngôn từ phong phú khác trong kho tàng ngôn ngữ học Việt Nam.

 Đôi nét về Tiến sĩ Đỗ Anh Vũ

 

Năm sinh: 1980.

 

Quê quán: tại xã Hà Hồi, huyện Thường tín, thành phố Hà Nội.

 

Anh tốt nghiệp Khoa ngôn ngữ học tại Đại học Khoa học xã hội và Nhân văn (năm 2002). Tháng 3/2019 anh bảo vệ thành công luận án Tiến sĩ ngôn ngữ học - nghiên cứ về đặc điểm ngôn ngữ nghệ thuật thơ Nguyễn Bính qua các tác phẩm trước 1945 tại Viện ngôn ngữ học, Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam.

 

Từ tháng 9/2019 đến nay anh làm Biên tập viên tại Ban Văn học Nghệ thuật (VOV6), Đài Tiếng nói Việt Nam - phụ trách chương trình “Đôi bạn văn chương”, phát sóng 22 giờ 30 thứ Tư hàng tuần trên FM 96,5 Mhz.

 

Anh còn là khách mời thường xuyên của chuyên mục “Giữ gìn sự trong sáng của tiếng Việt” trên sóng VOV2, Đài Tiếng nói Việt Nam.

 

Công việc mà anh yêu thích: trò chuyện văn nghệ, viết phê bình tiểu luận, làm thơ, nghiên cứu ngôn ngữ và văn hoá, chuyển văn xuôi sang thơ...

 

Ngoài vai trò của một nhà báo, anh còn kiêm thêm giảng viên thỉnh giảng của nhiều Trường đại học từ 2002 đến nay như: Đại học Khoa học xã hội và Nhân văn; Đại học An ninh, Đại học Văn hoá Hà Nội, Đại học Thăng Long, Đại học Đại Nam...

 

Trước đó, anh còn đảm nhiệm MC của chương trình câu lạc bộ thơ trên VTV 1 từ 7/2009 đến 2/2011.

 

Anh có nhiều công trình nghiên cứu độc đáo về ngôn ngữ, không những vậy anh còn sáng tác rất nhiều thơ ca, viết tiểu luận, in sách, dịch thuật… với khoảng hơn 200 tiểu luận, khảo cứu về các vấn đề ngôn ngữ, văn hoá và văn học rất tâm huyết về ngôn ngữ học Việt Nam được đăng trên các ấn phẩm như: An ninh thế giới, Tinh hoa Việt, Tạp chí Ngôn ngữ, Tạp chí Ngôn ngữ và đời sống, Tạp chí Từ điển học và Bách khoa thư, Tạp chí Văn nghệ quân đội, Báo Văn nghệ công an, Báo Văn nghệ Hội nhà văn Việt Nam và nhiều ấn phẩm khác…

 

Duới đây là các tác phẩm của anh đã được công bố

 

1. Vẻ đẹp của yêu tinh (hỗn luận) - Công ty Nhã Nam, nhà xuất bản Hội Nhà văn 2017

2. Lảo đảo giữa nhân gian (mê luận) - Nhà xuất bản Văn học 2021

3. Ngụ ngôn La Fontaine toàn tập (đồng dịch giả) - Nhà xuất bản Văn học 2021

4. Mùa nhớ - thơ những ngày giãn cách (chủ biên) - Nhà xuất bản Văn học 2020

5. Tiếng thời gian - thi tuyển (đồng chủ biên) - Nhà xuất bản Văn học 2021

6. Hà Nội trong mắt thơ -thi tuyển (đồng chủ biên) - Nhà xuất bản Văn học 2021

 

"Tự nhủ đã hứa với ai việc gì thì cố gắng làm cho hết sức và trọn vẹn. Công việc gia đình và cơ quan cố gắng giải quyết hài hòa cho mọi việc suôn sẻ, để cuộc sống mỗi ngày được vận hành một cách trơn tru. Chính điều đó làm mình sống yên tâm và sống vui mỗi ngày” - Đỗ Anh Vũ.

 

Ý kiến bạn đọc...

Gửi
Hủy

Sẽ có 119 bài tham luận tại Hội thảo khoa học cấp quốc gia kỷ niệm 50 năm thống nhất đất nước

DNTH: Hội thảo kỷ niệm 50 năm ngày Giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước (30/4/1975 - 30/4/2025) cấp quốc gia sẽ diễn ra tại TP. HCM vào ngày mai (20/4). Hội thảo có 119 bài tham luận được chuẩn bị công phu và nghiêm túc.

Chương trình nghệ thuật “Đất nước trọn niềm vui” quy tụ hơn 1000 nghệ sĩ, diễn viên

DNTH: Chương trình nghệ thuật đặc biệt “Đất nước trọn niềm vui” quy tụ hơn 1.000 nghệ sĩ tham gia vào tối 20/4, tại Hội trường Thống Nhất, TP Hồ Chí Minh. Đây là hoạt động nổi bật trong chuỗi hoạt động Kỷ niệm 50 năm Ngày...

Bắc Ninh tổ chức nhiều hoạt động đặc sắc tại Lễ hội Đền Đô

DNTH: Trong khuôn khổ Lễ hội Đền Đô năm 2025 và kỷ niệm 1015 năm ngày đức vua Lý Thái Tổ đăng quang (1010–2025), bên cạnh các nghi lễ truyền thống còn có nhiều hoạt động đặc sắc, thu hút đông đảo nhân dân và du khách thập phương.

Chuỗi chương trình nghệ thuật Chào mừng kỷ niệm 50 năm ngày giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước

DNTH: Hòa cùng không khí vui tươi, phấn khởi của đất nước đón chào Ngày “Non sông thống nhất” các đơn vị nghệ thuật thuộc Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch (VHTTDL) tổ chức chuỗi chương trình nghệ thuật đặc biệt chào mừng 50 năm...

Quảng Nam: Đặc sắc Lễ hội Tam Kỳ mùa hoa sưa năm 2025 - 'Rực rỡ sắc hoa vàng'

DNTH: Nằm trong khuôn khổ các hoạt động của lễ hội Tam Kỳ mùa hoa sưa năm 2025 - “Rực rỡ sắc hoa vàng” diễn ra từ 10 - 13/4 tại làng sinh thái Hương Trà, phường Hòa Hương, tối 11/4, UBND thành phố Tam Kỳ (tỉnh Quảng Nam) đã tổ chức...

Cần bảo vệ, không để thất lạc, mai một di sản văn hóa

DNTH: Bộ Văn hóa - Thể thao và Du lịch (VHTT&DL) đang lấy ý kiến dự thảo Thông tư quy định về kiểm kê di sản văn hóa, công bố danh mục kiểm kê di sản văn hóa và việc đưa thêm, di dời, thay đổi hiện vật trong di tích; phân loại di...

XEM THÊM TIN