Một số giải pháp tăng cường liên kết phát triển kinh tế du lịch bền vững vùng Đồng bằng sông Hồng (phần 2)
14:33 | 08/11/2025
DNTH: Hệ thống chính sách phát triển kinh tế du lịch bền vững vùng ĐBSH đòi hỏi sự liên kết vùng và hợp tác hệ thống ngành theo hướng quản lý tổng hợp. Việc tổ chức thực hiện hệ thống chính sách không thể theo hệ thống hành chính vì không có cơ quan nào tập hợp chỉ đạo.
Xây dựng thể chế liên kết phát triển kinh tế du lịch bền vững đủ mạnh, bảo đảm hiệu lực, hiệu quả điều phối, liên kết du lịch Vùng.
Xây dựng thể chế liên kết phát triển kinh tế du lịch bền vững vùng đủ mạnh, bảo đảm hiệu quả điều phối, liên kết phát triển vùng. Thực hiện thí điểm các cơ chế, chính sách về tài chính, ngân sách, đầu tư; thí điểm áp dụng một số mô hình, cơ chế, chính sách mới vượt trội, cạnh tranh quốc tế cao nhằm phát huy tối đa tiềm năng, lợi thế của các vùng
Chỉ có liên kết phát triển kinh tế du lịch bền vững vùng, lĩnh vực du lịch, dịch vụ mới phát triển mạnh mẽ đề nghị các Bộ, ngành, địa phương được giao chủ trì khẩn trương hoàn thành nhiệm vụ nghiên cứu đối với các dự án vùng và liên vùng
xem xét ban hành Luật về phát triển vùng. Đây sẽ là văn bản pháp luật quan trọng làm cơ sở cho hoạt động liên kết, phát triển vùng trong thời gian tới. Hiện nay, các quy định về phát triển vùng cũng đang nằm rải rác trong các luật chuyên ngành. Để tạo cơ sở pháp lý quan trọng cho việc phát huy vai trò, trách nhiệm của các cơ quan ở địa phương, Hội đồng điều phối phát triển vùng ở Trung ương; các bộ, Chính phủ và các cơ quan khác cần thiết phải có một văn bản luật để kịp thời điều chỉnh, phục vụ cho việc liên kết phát triển kinh tế du lịch bền vững vùng.
Một là, các bộ, ngành, địa phương vùng ĐBSH tăng cường phối hợp trong việc ban hành các chủ trương, chính sách để thể chế hóa, đưa Nghị quyết số Nghị quyết 30-NQ/TW ngày 23/11/2022 của Bộ Chính trị về phát triển kinh tế - xã hội và bảo đảm quốc phòng, an ninh vùng đồng bằng Sông Hồng đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045 vào cuộc sống một cách nhanh chóng và hiệu quả. Chú trọng các giải pháp huy động nguồn lực nhằm phát huy tối đa tiềm năng, lợi thế so sánh, đổi mới sáng tạo để tăng cường liên kết phát triển kinh tế du lịch bền vững vùng; quán triệt và triển khai thực hiện quyết liệt các nhiệm vụ, giải pháp hoàn thiện thể chế liên kết phát triển kinh tế du lịch bền vững vùng kinh tế - xã hội theo chỉ đạo của Trung ương. Trước mắt, các bộ, ngành, địa phương tăng cường phối hợp rà soát các quy hoạch liên quan để điều chỉnh hoặc xây dựng mới các quy hoạch ngành phù hợp với nhu cầu phát triển theo Quy hoạch vùng ĐBSH thời kỳ 2021 - 2030, tầm nhìn đến năm 2045 và Luật Quy hoạch 2017.
Hai là, cần xây dựng và ban hành Luật về liên kết phát triển kinh tế du lịch bền vững vùng với các nội dung chủ yếu như: Phương thức liên kết; nội dung liên kết; cơ cấu tổ chức và quy chế hoạt động của tổ chức điều phối vùng; quyền, trách nhiệm, nghĩa vụ của các bên tham gia liên kết; cơ chế phân chia lợi ích và xác định trách nhiệm với rủi ro; trình tự, thủ tục thực hiện liên kết… Trên cơ sở đó, có các quy định về cơ chế chia sẻ nguồn thu và nhiệm vụ chi; cơ chế chia sẻ lợi ích giữa các địa phương trong vùng đối với các dự án liên kết phát triển kinh tế du lịch bền vững vùng; cơ chế, chính sách khuyến khích khu vực tư nhân đầu tư vào các dự án liên kết phát triển kinh tế du lịch bền vững vùng.
Ba là, chủ động phối hợp trong xây dựng cơ sở dữ liệu về thông tin của bộ, ngành, địa phương và thông tin vùng ĐBSH để tăng cường khả năng tiếp cận và chia sẻ thông tin, tạo thuận lợi trong việc nắm bắt thông tin để các địa phương, tổ chức, doanh nghiệp trong vùng dễ dàng trao đổi, chia sẻ kinh nghiệm trong việc quản lý tài nguyên, bảo vệ môi trường; chủ động liên kết để thích ứng với biến đổi khí hậu, phòng tránh và giảm nhẹ thiên tai… Đồng thời, đẩy mạnh công tác thông tin, truyền thông để nâng cao nhận thức của cán bộ, đảng viên, người dân, doanh nghiệp về tầm quan trọng, lợi ích của liên kết phát triển kinh tế du lịch bền vững vùng cũng như những hệ lụy do thiếu sự liên kết hợp tác đối với sự phát triển bền vững của đất nước, của vùng, của địa phương.
Bốn là, Hội đồng điều phối vùng ĐBSH chủ động tham mưu, đề xuất với Thủ tướng Chính phủ về cơ chế, chính sách, chiến lược, quy hoạch, kế hoạch, chương trình, đề án, nhiệm vụ, dự án có quy mô vùng, có tính chất liên kết phát triển kinh tế du lịch bền vững vùng và phát triển bền vững ĐBSH, tập trung vào một số nhiệm vụ sau: Triển khai thực hiện có hiệu quả Quy hoạch vùng ĐBSH thời kỳ 2021 - 2030, tầm nhìn đến năm 2050; xây dựng danh mục các chương trình, dự án có quy mô vùng và có tính chất liên kết phát triển kinh tế du lịch bền vững vùng; phương án huy động nguồn lực, phương án phân bổ vốn đầu tư đối với vùng ĐBSH; kế hoạch đầu tư công trung hạn, hằng năm đối với các dự án có quy mô vùng và có tính chất liên kết phát triển kinh tế du lịch bền vững vùng ĐBSH; huy động các nguồn lực hỗ trợ trong nước và quốc tế khác cho hoạt động liên kết phát triển kinh tế du lịch bền vững vùng…
Năm là, đầu tư nâng cấp, tăng cường tiềm lực đối với các viện nghiên cứu, trung tâm nghiên cứu thuộc các bộ, ngành trung ương đang hoạt động ở vùng ĐBSH để các cơ sở này có đủ năng lực, điều kiện giải quyết các vấn đề cấp thiết của vùng. Các bộ, ngành, địa phương tham gia Hội đồng điều phối vùng ĐBSH cần thường xuyên trao đổi, đối thoại với cơ quan chức năng, cộng đồng doanh nghiệp, người dân để nắm bắt nhu cầu, các vấn đề khó khăn, vướng mắc trong quá trình xây dựng và triển khai các cơ chế, chính sách phát triển vùng, liên kết phát triển kinh tế du lịch bền vững vùng, từ đó kịp thời đề ra giải pháp hoặc kiến nghị cấp có thẩm quyền xem xét, có giải pháp tháo gỡ kịp thời.
Sáu là, nghiên cứu thành lập Quỹ Phát triển vùng ĐBSH để huy động các nguồn tài chính đầu tư cho các chương trình, dự án trọng điểm, quan trọng có tính chất lan tỏa, thúc đẩy liên kết phát triển kinh tế du lịch bền vững vùng, hướng đến sự phát triển bền vững của vùng. Quỹ có thể được hình thành từ nhiều nguồn như: ngân sách trung ương, ngân sách của các địa phương, sự tài trợ, đóng góp của các doanh nghiệp, các tổ chức, cá nhân trong và ngoài nước,… Việc sử dụng Quỹ phải dựa trên cơ chế vừa hợp tác vừa cạnh tranh giữa các địa phương thông qua việc đề xuất các chương trình, dự án có tính kết nối vùng. Trên cơ sở đó, những chương trình, dự án có tính khả thi sẽ được ưu tiên lựa chọn để triển khai thực hiện nhanh, góp phần gia tăng nguồn lực phát triển cho vùng và các địa phương có liên quan.
Bảy là, ủy ban nhân dân các tỉnh, thành phố vùng ĐBSH chủ động đề ra giải pháp thực hiện các nhiệm vụ trọng tâm phát triển vùng và tăng cường triển khai các chương trình, kế hoạch liên kết phát triển kinh tế du lịch bền vững vùng đã ký kết. Chủ động phối hợp với các bộ, ngành trung ương triển khai thực hiện tốt quy hoạch các tỉnh, thành phố thời kỳ 2021 - 2030, tầm nhìn đến năm 2050 gắn kết với Quy hoạch vùng ĐBSH. Trên cơ sở đó, xây dựng, ban hành các cơ chế, chính sách phù hợp để huy động tối đa các nguồn lực, kết hợp nguồn vốn giữa Trung ương và địa phương, tranh thủ nguồn vốn ODA, vốn tư nhân và các nguồn vốn hợp pháp khác để triển khai các chương trình, dự án trọng điểm, có tính đột phá, nâng cao tính thực chất và hiệu quả của liên kết phát triển kinh tế du lịch bền vững vùng ĐBSH./.
Phát triển nguồn lực con người trong liên kết phát triển kinh tế du lịch bền vững vùng đồng bằng Sông Hồng.
Như đã trình bày ở trên, nguồn lực con người không đồng đều giữa các địa phương trong cùng tiểu vùng là một trong những nhân tố góp phần cản trở liên kết phát triển kinh tế du lịch bền vững vùng. Vì vậy, phát triển nguồn lực con người là cần thiết và cần theo định hướng liên kết về phát triển con người.
Trước tiên, đào tạo và bồi dưỡng nhân lực cần phải là một nhiệm vụ xuyên suốt của ban chỉ đạo hợp tác - liên kết phát triển kinh tế du lịch bền vững vùng và do đó cần có bộ phận thuộc ban chỉ đạo thực hiện các công việc liên quan đến phát triển nhân lực.
Thứ hai, cần xây dựng cơ sở dữ liệu thống kê vùng và tiểu vùng về nhu cầu đào tạo - bồi dưỡng nhân lực du lịch và năng lực cung cấp dịch vụ của các cơ sở đào tạo, bồi dưỡng trong vùng và tiểu vùng. Dữ liệu là điều kiện tiên quyết cho việc xây dựng các chính sách phát triển nhân lực.
Thứ ba, cần chú trọng phát triển nhân lực cho chính quyền các địa phương để hỗ trợ liên kết phát triển kinh tế du lịch bền vững vùng. Các cán bộ, công chức các địa phương cần được bồi dưỡng để nâng cao nhận thức về tầm quan trọng của liên kết phát triển kinh tế du lịch bền vững vùng, cập nhật các chủ trương, đường lối của Đảng và các văn bản quy phạm pháp luật của Nhà nước về liên kết phát triển kinh tế du lịch bền vững vùng. Họ cũng cần được bồi dưỡng các tri thức và kỹ năng phục vụ cho liên kết phát triển kinh tế du lịch bền vững vùng như vận hành các hệ thống chia sẻ thông tin giữa các địa phương, tham gia xây dựng và thực hiện các quy hoạch, kế hoạch hợp tác giữa các địa phương trong những ngành, lĩnh vực cụ thể. Việc được đào tạo, bồi dưỡng cũng nhau cũng là một điều kiện để phát triển các mối quan hệ cá nhân và công việc giữa các cán bộ, công chức trong tiểu vùng và những mối quan hệ này giúp việc hình thành các ý tưởng hợp tác, kế hoạch hợp tác dễ dàng hơn.
Bản thân các cơ sở đào tạo trong mỗi tiểu vùng cần liên kết với nhau bao gồm dùng chung nguồn giảng viên, liên kết hệ thống thư viện, liên kết chương trình đào tạo… Không nhất thiết tỉnh nào cũng phải có trường đại học. Các trường đại học ở tỉnh khác nhưng trong cùng tiểu vùng có thể tham gia đào tạo nhân lực cho tỉnh chưa có trường đại học. Ví dụ, nhân lực của Ninh Bình có thể được đào tạo ở các trường đại học ở Thái Bình và Nam Định.
Thứ năm, trong lĩnh vực du lịch, mỗi tiểu vùng nên có một hệ thống đào tạo - bồi dưỡng nhân lực du lịch chung, dùng chung nguồn giảng viên và cơ sở thực hành - thực tập, dùng chung các nguồn lực đào tạo khác như cơ sở vật chất, bài giảng… Điều này không chỉ giúp phát triển du lịch của từng địa phương trong tiểu vùng mà còn hỗ trợ việc liên kết phát triển kinh tế du lịch bền vững vùng trong du lịch do các nhân lực này cùng được đào tạo trong một hệ thống.
Hệ thống đào tạo - bồi dưỡng chung này cần tính đến thế mạnh của các cơ sở đào tạo của mỗi địa phương ở các cấp đại học, cao đẳng nghề, trung cấp nghề và các trung tâm dạy nghề nhằm mục đích phân công, phối hợp trong đào tạo và tiết kiệm nguồn lực. Nội dung đào tạo cần chú trọng định hướng phục vụ du lịch bền vững vùng để khai thác lợi thế về bờ biển và biển của tiểu vùng.
Thứ sáu, cần khẩn trương xây dựng kế hoạch tái cơ cấu nhân lực trong ngành năng lượng ở từng vùng phù hợp với chiến lược và kế hoạch tăng trưởng xanh và lộ trình đạt phát
Huy động và phân bổ nguồn lực tài chính trong liên kết phát triển kinh tế du lịch bền vững vùng đồng bằng Sông Hồng.
Thứ nhất về phân bổ nguồn lực tài chính: Để các địa phương có nguồn tài chính ổn định để thúc đẩy các hoạt động liên kết phát triển kinh tế du lịch bền vững, Chính phủ cần đẩy mạnh việc phân quyền tài chính. Việc phân quyền tài chính phải phù hợp với điều kiện, đặc điểm của từng địa phương, vùng; các ngành, lĩnh vực để các địa phương, vùng phát huy được tính chủ động, đổi mới nguồn ngân sách địa phương; tạo điều kiện cho các cấp chính quyền địa phương linh hoạt, sáng tạo trong sử dụng các nguồn lực hợp pháp trong việc thúc đẩy các liên kết phát triển kinh tế du lịch bền vững vùng. Một số địa phương cần được cấp phép có cơ chế quản lý, sử dụng tài chính, nguồn ngân sách đặc thù, đặc biệt là các nguồn thu từ các loại thuế, phí v.v…để tạo điều kiện cho các địa phương có thêm nguồn lực thực hiện.
Thứ hai về huy động nguồn lực tài chính: Nguồn lực tài chính phục vụ cho liên kết, phối hợp vùng bao gồm hai loại: nguồn từ ngân sách nhà nước và nguồn vốn tư nhân.
(i) Nguồn từ ngân sách nhà nước bao gồm cả nguồn quốc tế mà Nhà nước quản lý. Nguồn này lại bao gồm hai loại: (a) Tài chính cho các hoạt động chi ngân sách của ngân sách địa phương; (b) Tài chính cho các hoạt động chi ngân sách của ngân sách trung ương trên địa bàn của địa phương. Các hoạt động như vậy nằm trong nhóm các hoạt động được quy định theo từng cấp ngân sách địa phương trong Luật Ngân sách Nhà nước. Các tỉnh, thành trong từng vùng và tiểu vùng sau khi xác định được các hoạt động liên kết, phối hợp vùng cụ thể (ví dụ xúc tiến quảng bá du lịch, đào tạo nhân lực…) sẽ xác định ngân sách chung và xác định mức đóng góp từ ngân sách nhà nước của từng địa phương.
Đối với các nhiệm vụ chi ngân sách nhà nước do Trung ương đảm nhiệm, ví dụ quốc lộ hay đường bộ cao tốc, sân bay, cảng biển… là những hạng mục dùng chung cho vùng và tiểu vùng, ngân sách nhà nước Trung ương thường không đủ để thực hiện. Do đó, nếu đợi Trung ương làm sẽ khiến cho liên kết, phối hợp vùng bị cản trở. Các địa phương nên xin phép được chung sức làm các công trình này bằng ngân sách thu từ phát hành trái phiếu chính quyền địa phương miễn là các công trình đó đảm bảo các điều kiện để chính quyền địa phương phát hành theo Luật Quản lý nợ công. Ngoài ra, các chính quyền địa phương có thể phối hợp và trở thành một thực thể Nhà nước duy nhất trong các dự án đầu tư phát triển theo phương thức đầu tư PPP. Việc nhiều chính quyền tỉnh cùng tham gia một dự án PPP sẽ khiến cho dự án này rất có uy tín và nhờ đó thu hút được khu vực tư nhân tham gia. Quảng Ninh và Hải Phòng đã từng chung sức xây dựng tuyến cao tốc Hải Phòng - Hạ Long bao gồm cầu Bạch Đằng, trở thành một ví dụ về cách làm này.
(ii) Nguồn vốn tư nhân. Khoảng 80% lượng tiết kiệm tư nhân của Việt Nam được đầu tư vào lĩnh vực tài chính. Vì thế, để huy động tiết kiệm tư nhân vào các hoạt động liên kết, phối hợp vùng, cần hoàn thiện các thể chế hỗ trợ như các văn bản quy phạm pháp luật về đầu tư theo phương thức PPP và BOT, trái phiếu nhà nước, trái phiếu chính quyền địa phương. Ngoài ra, đối với một số ngành kinh tế biển mũi nhọn, đặc thù cần có cơ chế, khuyến khích đủ mạnh, đủ sức hấp dẫn để thu hút thành phần kinh tế tư nhân tham gia.
Kết luận
Phát triển kinh tế du lịch bền vững vùng đồng bằng Sông Hồng cần phải có qui hoạch phát triển kinh tế, xã hội, môi trường, an ninh bền vững một cách cụ thể để đến năm 2030, tầm nhìn 2045 là một vùng phát triển mạnh về kinh tế du lịch. Hệ thống chính sách phát triển kinh tế du lịch bền vững vùng ĐBSH đòi hỏi sự liên kết vùng và hợp tác hệ thống ngành theo hướng quản lý tổng hợp. Việc tổ chức thực hiện hệ thống chính sách không thể theo hệ thống hành chính vì không có cơ quan nào tập hợp chỉ đạo. Để liên kết vùng và hợp tác ngành cần có tổ chức liên kết hệ thống doanh nghiệp để tạo ra các sản phẩm du lịch đặc sắc thu hút khách trong và ngoài nước.
Sự phối hợp liên tỉnh, liên vùng và hội nhập quốc tế trong các lĩnh vực kinh tế du lịch nhất là đầu tư cơ sở hạ tầng giao thông, tu sửa bảo tồn di tích lịch sử, khu vui chơi, điểm đến du lịch có ý nghĩa quan trọng nhằm tập trung nguồn lực, tránh đầu tư dàn trải, chồng chéo, trùng lặp để đảm bảo hiệu quả đầu tư.
Sự phối hợp giữa các ngành, các tỉnh trong việc chỉ đạo, điều hành thực hiện quy hoạch, kế hoạch và thẩm định đầu tư tất cả các dự án trong vùng là hết sức quan trọng. Hiện các tỉnh đã thực hiện giao ban định kỳ, nhưng vẫn mang tính hành chính, việc hợp tác trong các lĩnh vực thương mại, du lịch,…cần phải có sự liên kết chặt chẽ hơn nữa.
TS. Nguyễn Bảo Thư
Khoa Kinh tế chính trị- Học viện Báo chí và Tuyên Truyền
Việt Nam đón 15,4 triệu lượt khách quốc tế trong 9 tháng đầu năm
DNTH: Theo Cục Du lịch quốc gia Việt Nam, chỉ riêng tháng 9, Việt Nam đã đón gần 1,52 triệu lượt khách quốc tế, tăng 19,5% so với cùng kỳ năm 2024. Tính chung 9 tháng đầu năm 2025, tổng lượng khách quốc tế đạt 15,4 triệu lượt, tương...
Quảng Ninh lần đầu tiên tổ chức lễ diễu hành xe đèn lồng và bắn pháo hoa dịp Trung thu
DNTH: Trung thu năm nay, Quảng Ninh “chơi lớn” với lễ diễu hành đoàn xe đèn lồng quy mô nhất từ trước tới nay, kết hợp pháo hoa nghệ thuật tại bãi biển trục quảng trường Sun Carnival, mang đến trải nghiệm đêm rằm rực rỡ chưa...
Sheraton Grand Danang Beach Resort & SPA được vinh danh TOP 10 khách sạn 5 sao tốt nhất Việt Nam 2025
DNTH: Ngày 27/9, tại lễ trao Giải thưởng Du lịch Việt Nam 2025, Sheraton Grand Danang Beach Resort & SPA - khu nghỉ dưỡng và hội nghị đạt tiêu chuẩn Sheraton Grand đầu tiên tại Đông Nam Á - tự hào được vinh danh TOP 10 khách sạn 5 sao tốt nhất...
Hà Nội đón hơn 26 triệu lượt du khách thu về gần 100.000 tỷ đồng trong 9 tháng
DNTH: Trong 9 tháng năm 2025, Hà Nội đón hơn 26 triệu lượt khách, doanh thu du lịch đạt gần 100.000 tỷ đồng, khẳng định sức bật và vị thế trung tâm du lịch hàng đầu cả nước.
Du khách thích thú check-in đại kỳ tại Hạ Long ngay trước thềm lễ 2/9
DNTH: Những ngày cuối tháng 8, Sun World Hạ Long khoác áo đỏ rực rỡ với hàng nghìn lá cờ Tổ quốc, tiểu cảnh đậm chất Việt, trở thành điểm đến “gây sốt” cho du khách đến vịnh di sản check-in và cảm nhận không khí lễ hội...
Cẩm nang du lịch: Hà Nội rợp cờ hoa kết hợp Sa Pa lúa vàng 2/9
DNTH: Kỳ nghỉ 2/9 năm nay, du khách có thể trải nghiệm một hành trình bốn ngày đáng nhớ: ngắm thủ đô Hà Nội đầy tự hào, hòa mình trong không khí buổi lễ diễu binh lịch sử tại Quảng trường Ba Đình, và tận hưởng cảnh sắc vùng...
Đô thị cuộc sống
-
Từ 3/11, hành khách đi Vietnam Airlines cần biết điều này?
-
Quốc hội thông qua mức giảm trừ gia cảnh mới
-
Thông xe đường Liên Phường, kết nối giao thông cửa ngõ phía Đông TP.HCM
-
Tập đoàn Sơn Hải lên tiếng vụ "sai phạm tại dự án 500 tỉ đồng": Đính chính thông tin gây hiểu lầm
-
Hưng Yên: Thôn Đông An hướng đến Ngày hội đại đoàn kết toàn dân
-
Những phần quà nghĩa tình tiếp sức người dân và học sinh xã Bố Hạ vượt qua bão lũ
Sống khỏe
-
Hội nghị đột quỵ Quốc tế 2025: Kỷ nguyên số trong đột quỵ não từ quản lý toàn diện tới cá thể hóa
-
Mầm non Việt Mỹ: 'Ngôi nhà thứ hai' chắp cánh tương lai cho hàng ngàn trẻ thơ TP.HCM
-
Ca sĩ Siu Black xuất viện sau 5 ngày điều trị, sớm trở lại sân khấu
-
“Phép màu” hồi sinh một gia đình có hai bệnh nhân ung thư xương
-
Bệnh viện ở Gia Lai được bổ sung gần 400 kỹ thuật chuyên sâu
Thị trường
-
Ô tô cũ ế ẩm, giới buôn “có lời là bán”
-
"Lướt sóng" bất động sản thời điểm này 90% là thất bại
-
Ninh Thuận bứt phá ngoạn mục, trở thành “mỏ vàng” trong mắt nhà đầu tư
-
Bất động sản Việt Nam vẫn hấp dẫn nhà đầu tư nước ngoài
-
M&A bất động sản phía Nam nhộn nhịp trong mùa dịch
-
Ô tô giảm giá “chạy” tháng ngâu
Ý kiến bạn đọc...