Vực dậy tiềm năng, giá trị dong riềng Bắc Kạn

10:42 | 19/09/2021

DNTH: Cùng với vực dậy tiềm năng, nâng diện tích, đầu tư mạnh cho chế biến sâu, Bắc Kạn đang từng bước chuyển hướng sản xuất cây dong riềng theo hướng hữu cơ, bền vững.

 

Hiện nay, một số đơn vị, HTX chế biến miến dong của Bắc Kạn đã bước đầu xuất khẩu được sản phẩm sang các thị trường lớn. Ảnh: Toán Nguyễn.
Hiện nay, một số đơn vị, HTX chế biến miến dong của Bắc Kạn đã bước đầu xuất khẩu được sản phẩm sang các thị trường lớn. Ảnh: Toán Nguyễn.

Bước đầu vươn ra xuất khẩu

Cây dong riềng được người dân Bắc Kạn trồng từ xa xưa, trong đó có cây dong riềng đỏ (giống địa phương) trồng rải rác trên sườn đồi và soi bãi để lấy nguyên liệu làm miến tráng tay thủ công, tự cung tự cấp. Dong riềng đỏ tuy năng suất thấp, nhưng lại ít sâu bệnh.

Những năm gần đây, do nhu cầu thị trường đối với miến dong tăng cao nên người dân chuyển sang trồng giống dong riềng lai DR1, do vậy cây dong riềng đỏ địa phương bị mai một. Cây dong riềng được đánh giá có năng suất cao, thích hợp với điều kiện tự nhiên của tỉnh Bắc Kạn, đã chứng minh là cây trồng sản xuất hàng hóa mang lại hiệu quả cho người dân từ hàng chục năm nay.

Vùng trồng dong riềng của tỉnh Bắc Kạn tập trung chủ yếu tại các huyện Na Rì, Ba Bể, và diện tích ít hơn ở huyện Bạch Thông, Chợ Mới, Pác Nặm. Những năm trước đây, do việc tăng nhanh về diện tích, sản lượng củ dong riềng tăng mạnh, nhưng các cơ sở chế biến trên địa bàn phần lớn là nhỏ lẻ, dẫn đến ứ đọng nguyên liệu, giá củ dong xuống thấp.

Hiện nay, Bắc Kạn đã điều chỉnh diện tích phù hợp với mục tiêu xây dựng thương hiệu và nâng cao giá trị sản phẩm miến dong trong chuỗi liên kết từ vùng trồng đến chế biến sản phẩm miến. Những năm gần đây, diện tích trồng dong riềng trên địa bàn tỉnh dao động trên dưới 500 ha, năng suất đạt 74 tấn/ha.

Dong riềng chủ yếu canh tác trên đất nương rẫy với diện tích chiếm khoảng 80%, diện tích canh tác dong riềng trên đất ruộng, soi bãi, vườn nhà có khoảng 20%. Hiện nay, trên địa bàn tỉnh đang trồng hai giống dong riềng chính. Giống địa phương chiếm khoảng 5% diện tích, sản lượng thấp nhưng củ dong có tỷ lệ tinh bột cao, chất lượng miến tốt; giống lai DR1 chiếm 95% diện tích, là giống cao sản có năng suất cao, tỷ lệ bột thấp hơn so với dong riềng địa phương.

Người dân thu hoạch củ dong riềng tại huyện Na Rỳ. Ảnh: Toán Nguyễn.
Người dân thu hoạch củ dong riềng tại huyện Na Rỳ. Ảnh: Toán Nguyễn.

Sản phẩm miến dong Bắc Kạn đã được Cục Sở hữu trí tuệ (Bộ Khoa học và Công nghệ) cấp chứng nhận nhãn hiệu tập thể. Các sản phẩm miến dong Bắc Kạn được tiêu thụ tốt trên thị trường trong và ngoài tỉnh với giá cả ổn định.

Việc xây dựng thành công và công bố nhãn hiệu tập thể miến dong Bắc Kạn, đổi mới công nghệ chế biến, nâng cao chất lượng, đa dạng hóa sản phẩm đã nâng cao uy tín, hình ảnh của miến dong Bắc Kạn đối với thị trường trong nước và bước đầu đã có doanh nghiệp xuất khẩu được sản phẩm miến dong sang thị trường Châu Âu.

Chuyển dần sang hướng hữu cơ, bền vững

Toàn tỉnh Bắc Kạn hiện có 37 cơ sở chế biến miến dong, trong đó có 17 cơ sở vừa chế biến tinh bột, vừa sản xuất miến, 10 cơ sở chuyên sản xuất miến, 10 cơ sở chuyên sản xuất tinh bột. Như vậy, năng lực sản xuất sản phẩm miến dong thấp, chỉ tiêu thụ được khoảng hơn 20% lượng tinh bột, còn gần 80% lượng tinh bột dong phải bán ra thị trường ngoài tỉnh, điều này đã làm cho giá bán củ dong và tinh bột còn thấp.

Sản phẩm từ cây dong riềng, mà cụ thể là miến dong Bắc Kạn hiện chiếm thị phần rất nhỏ tại các thị trường ngoài tỉnh và đang chịu sự cạnh tranh từ nhiều sản phẩm cùng loại khác. Sản phẩm miến dong Bắc Kạn đã được bảo hộ nhưng hệ thống nhận diện, khai thác nhãn hiệu trên thị trường chưa được đầy đủ.

Bắc Kạn đang dành nhiều nguồn lực để phát triển cây dong riềng theo chuỗi giá trị, từng bước chuyển sang sản xuất hữu cơ. Ảnh: Đồng Thưởng.
Bắc Kạn đang dành nhiều nguồn lực để phát triển cây dong riềng theo chuỗi giá trị, từng bước chuyển sang sản xuất hữu cơ. Ảnh: Đồng Thưởng.

Trong khâu sản xuất, còn gặp một số hạn chế trong việc cam kết hợp đồng giữa người nông dân với chủ sơ sở sản xuất tinh bột và miến dong khiến giá bán nguyên liệu không ổn định. Cùng với đó, tình trạng được mùa mất giá, kéo theo sự biến động lớn về diện tích trong thời gian qua.

Năm 2018, diện tích trồng dong riềng của toàn tỉnh là 1.040 ha; năm 2019, 2020 giảm còn 500 ha. Bên cạnh đó, khâu xử lý chất thải, bảo vệ môi trường tại các cơ sở chế biến dong chưa được quan tâm đúng mức.

Trước tình hình đó, hiện tỉnh Bắc Kạn đã đặt mục tiêu phấn đấu hoàn thiện và phát triển chuỗi giá trị sản phẩm dong riềng một cách hiệu quả, bền vững nhằm phát triển vùng nguyên liệu ổn định từ 500 - 600 ha từ nay đến năm 2023, tăng dần lên 800 ha vào năm 2025. Trong đó, diện tích tập trung tại các vùng sản xuất trọng điểm là các huyện Na Rì, Ba Bể, Pác Nặm, Bạch Thông và các vùng đệm, đủ đáp ứng nguyên liệu ổn định cho các cơ sở sản xuất chế biến sản phẩm tinh bột, sản phẩm miến dong phục vụ nhu cầu tiêu dùng trong nước và xuất khẩu.

Đầu tư mạnh cho chế biến

Vừa qua, UBND tỉnh Bắc Kạn đã xem xét và phê duyệt kế hoạch đầu tư chiến lược phát triển chuỗi giá trị dong riềng giai đoạn 2021 - 2023, với mục tiêu xây dựng các mối liên kết để phát triển trở thành chuỗi giá trị bền vững, ổn định, lâu dài với quy mô sản xuất tập trung, chuyên canh trên cơ sở khai thác các lợi thế về điều kiện tự nhiên, kinh tế - xã hội và thị trường trên địa bàn tỉnh Bắc Kạn. 

Cơ sở chế biến dong riềng tại Bắc Kạn nhìn chung hiện vẫn còn nhiều lạc hậu, đầu tư thấp: Toán Nguyễn.
Cơ sở chế biến dong riềng tại Bắc Kạn nhìn chung hiện vẫn còn nhiều lạc hậu, đầu tư thấp. Ảnh: Toán Nguyễn.

Đồng thời, phát triển vùng nguyên liệu gắn với tổ chức quản lý sản xuất, chế biến và tiêu thụ sản phẩm dựa trên cơ sở đầu tư khoa học - công nghệ để nâng cao năng suất, chất lượng, cải tiến quy trình công nghệ chế biến tạo ra sản phẩm có thương hiệu mạnh trên thị trường, được người dân tin dùng. Điểm nhấn là sản xuất phải gắn với bảo vệ môi trường, cân bằng sinh thái, từng bước xây dựng các mô hình sản xuất dong riềng hữu cơ. 

Tỉnh cũng áp dụng các chính sách hỗ trợ cơ sở chế biến miến phát triển. Cụ thể như nâng công suất chế biến của Cơ sở chế biến miến Nhất Thiện (huyện Ba Bể) đạt trên 1.000 tấn/năm; đầu tư mở rộng Cơ sở chế biến miến của Triệu Thị Tá (huyện Ba Bể) để đạt sản lượng miến trên 200 tấn/năm.

Tỉnh cũng đang xúc tiến xây dựng mới 01 cụm chế biến miến dong tại xã Côn Minh (huyện Na Rì) đạt 1.500 - 2.500 tấn miến/năm; 01 cơ sở chế biến tại khu vực trung tâm huyện Ba Bể với công suất trên 1.000 tấn miến/năm; 01 cơ sở chế biến với công suất 1.000 tấn miến/năm tại Thành phố Bắc Kạn để tiêu thụ toàn bộ sản lượng củ dong...

Sản phẩm miến dong đã được đóng bao của Cơ sở miến dong Nhất Thiện (huyện Ba Bể). Ảnh: Đồng Thưởng.
Sản phẩm miến dong đã được đóng bao của Cơ sở miến dong Nhất Thiện (huyện Ba Bể). Ảnh: Đồng Thưởng.

Song song đó, đẩy mạnh thu hút doanh nghiệp, HTX  trong và ngoài nước đầu tư chế biến ứng dụng công nghệ cao nhằm nâng cao giá trị gia tăng của sản phẩm chè, miến dong.

Các cơ quan chức năng của tỉnh Bắc Kạn cũng đã tiến hành đăng ký nhãn hiệu tập thể Miến dong Bắc Kạn tại một số thị trường nước ngoài tiềm năng để tạo điều kiện cho các doanh nghiệp, HTX xây dựng chiến lược xuất khẩu. Đầu tư xây dựng và công bố miến dong Bắc Kạn, tích hợp truy xuất nguồn gốc để đảm bảo ATTP, khẳng định sự minh bạch nhằm nâng cao giá trị gia tăng của sản phẩm miến dong của tỉnh.

Bắc Kạn đang từng bước thực hiện các quy trình kỹ thuật về sản xuất hữu cơ, để đến năm 2025 có 30% sản phẩm miến dong đạt tiêu chuẩn sản phẩm hữu cơ. Tập trung nâng cao chất lượng sản phẩm từ khâu chế biến, phấn đấu 100% sản lượng củ dong riềng được chế biến thành các sản phẩm như miến dong, viên nang miến dong, miến dong ăn liền...

Với việc quy hoạch, phát triển vùng trồng dong nguyên liệu gắn với cơ sở chế biến, sẽ tạo đà cho sản phẩm phát triển bền vững. Mục tiêu trong những năm tới là toàn bộ củ tươi chế biến thành tinh bột sẽ đạt 8.000 tấn tinh bột, sản xuất thành miến đạt khoảng 4.800 tấn miến thành phẩm. Trong đó diện tích được chứng nhận đạt tiêu chuẩn sản phẩm hữu cơ là 240 ha và truy xuất được nguồn gốc.

Xem tại đây ./.

Ý kiến bạn đọc...

Gửi
Hủy

Đồng Tiến (Hà Tĩnh) - Điểm sáng giữa vụ Hè Thu bị sâu bệnh gây hại nghiêm trọng

DNTH: Trong khi nhiều nơi trên địa bàn tỉnh đang chật vật đối phó với các đợt bùng phát bệnh đạo ôn, sâu cuốn lá và rầy nâu hại lúa vụ Hè Thu, xã Đồng Tiến nổi lên như một “điểm sáng” khi khoảng 300 ha lúa trên địa bàn vẫn...

Phát huy tiềm năng xuất khẩu của các sản phẩm trái cây có lợi thế

DNTH: Tại Việt Nam, chanh leo, dứa, dừa và chuối là những đại diện tiêu biểu, hội tụ nhiều lợi thế và tiềm năng để xuất khẩu. Tuy nhiên, ngành trái cây Việt Nam vẫn đang phải đối mặt với nhiều rào cản kỹ thuật từ các thị...

Sầu riêng đông lạnh xuất khẩu tăng gấp 3 lần

DNTH: Tại cuộc họp báo thường kỳ của Bộ Nông nghiệp và Môi trường diễn ra ngày 3/7, ông Đỗ Hồng Khanh, Chánh văn phòng Cục Trồng trọt và Bảo vệ thực vật, Bộ Nông nghiệp và Môi trường cho biết, 6 tháng đầu năm 2025, Việt Nam đã...

HAGL có thể lãi sau thuế 2.500 tỷ đồng trong năm 2025

DNTH: CTCP Hoàng Anh Gia Lai (HAGL, mã chứng khoán HAG) vừa khiến giới đầu tư bất ngờ khi Chủ tịch HĐQT Đoàn Nguyên Đức (bầu Đức) gửi tâm thư, chia sẻ về bức tranh kinh doanh 6 tháng đầu năm 2025 đầy khởi sắc và những kế hoạch đầy...

Tham quan nông trại 200 ha sầu riêng của Công ty 30-4 Gia Lai

DNTH: Ai từng nhắc đến Công ty TNHH 30-4 Gia Lai thường nghĩ ngay đến, đó là doanh nghiệp nổi tiếng trong ngành gỗ xuất khẩu hay thủy điện, những lĩnh vực đã định danh doanh nghiệp này lâu nay.

Vải thiều chế biến, dư địa còn bỏ ngỏ

DNTH: Mỗi vụ vải thiều, hàng trăm nghìn tấn đổ về chợ đầu mối, trạm trung chuyển, cửa khẩu biên giới – nhưng phần lớn vẫn là hàng tươi, tiêu thụ trong vài ngày. Trong khi đó, nhu cầu vải sấy, nước ép, vải đông lạnh lại đang...

XEM THÊM TIN