Xuất khẩu nông - lâm - thủy sản ước đạt trên 44,9 tỷ USD

11:16 | 29/10/2022

DNTH: Thông tin từ Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn (NN&PTNT), tính chung 10 tháng năm 2022, kim ngạch xuất khẩu nông - lâm - thủy sản cả nước ước đạt trên 44,9 tỷ USD, tăng 14,1% so với cũng kỳ năm trước. Trong đó, nhóm nông sản chính trên 2,1 tỷ USD, lâm sản chính gần 1,3 tỷ USD, thủy sản 900 triệu USD và chăn nuôi 35,3 triệu USD.

Trong đó, xuất khẩu nhóm nông sản chính trên 18,8 tỷ USD, tăng 7,2%; lâm sản chính khoảng 14,4 tỷ USD, tăng 10,7%; thủy sản đạt 9,4 tỷ USD, tăng 32,7%; chăn nuôi 326,9 triệu USD, giảm 8,7%; đầu vào sản xuất gần 2,0 tỷ USD, tăng 45,3%.

NLTS
Ảnh minh hoạ. Nguyên Khánh.

Đến nay, có 8 sản phẩm, nhóm sản phẩm đạt giá trị xuất khẩu trên 2 tỷ USD (cà phê, cao su, gạo, rau quả, điều, tôm, cá tra, sản phẩm gỗ). Nhiều mặt hàng đạt giá trị xuất khẩu cao hơn cũng kỳ năm trước, như: cà phê gần 3,3 tỷ USD (tăng 33,4%), cao su 2,8 tỷ USD (tăng 11,2%), gạo trên 2,9 tỷ USD (tăng 7,4%), hồ tiêu 829 triệu USD (tăng 4,7%), sắn và sản phẩm sắn 1,1 tỷ USD (tăng 16,5%), cá tra trên 2,1 tỷ USD (tăng 76,5%), tôm 3,8 tỷ USD (tăng 20,3%), gỗ và sản phẩm gỗ 13,5 tỷ USD (tăng 11,4%), phân bón các loại 961 triệu USD (gấp 2,5 lần), thức ăn gia súc và nguyên liệu 942 triệu USD (tăng 9,2%).

Đặc biệt, một số sản phẩm có giá xuất khẩu bình quân tăng so với cùng kỳ năm trước, như: Phân bón các loại giá bình quân khoảng 616 USD/tấn, tăng 72,7%; hạt tiêu khoảng 4.372 USD/tấn, tăng 26,9%; cà phê khoảng 2.301 USD/tấn, tăng 20,6%… giá xuất khẩu sang gạo sang tháng 9 bắt đầu tăng nhẹ so với tháng 8, nhưng tính bình quân thì giá XK khoảng 484 USD/tấn, giảm 8,3%; hạt điều khoảng 5.995 USD/tấn giảm 4,3%.

Tuy nhiên, cũng nhiều mặt hàng chủ lực đã bị giảm giá, ví dụ nhóm hàng rau quả gần 2,8 tỷ USD (giảm 6,5%), hạt điều gần 2,6 tỷ USD (giảm 15,3%), sản phẩm chăn nuôi 326,9 triệu USD (giảm 8,7%). Hoặc như nhóm sắn và sản phẩm sắn tăng 16,5% khối lượng nhưng giá trị XK của sản phẩm sắn lại giảm 0,6% với giá trị trên 190 triệu USD.

Về thị trường xuất khẩu,10 tháng, các thị trường  thuộc khu vực châu Á chiếm 44,1% thị phần, châu Mỹ 27,9%, châu Âu 11,5%, châu Đại Dương 1,7% và châu Phi 1,7%.

Hoa Kỳ tiếp tục là thị trường xuất khẩu lớn nhất, đạt trên 11,4 tỷ USD (chiếm 25,4% thị phần). Đứng thứ 2 là thị trường Trung Quốc khoảng 8,3 tỷ USD (chiếm 18,5% thị phần). Đứng thứ 3 là thị trường Nhật Bản với giá trị XK đạt 3,5 tỷ USD (chiếm 7,8%) và đứng thứ 4 là thị trường Hàn Quốc với giá trị XK đạt trên 2,1 tỷ USD (chiếm 4,7%).

Theo Bộ NN&PTNT, đến nay, đã cấp 4.814 mã số vùng trồng phục vụ xuất khẩu tại 54 tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương; 1.419 mã số cơ sở đóng gói phục vụ xuất khẩu cho các loại quả tươi (thanh long, xoài, vú sữa, chuối, bưởi, chanh không hạt, nhãn, vải, ớt, thạch đen...) được phép xuất khẩu sang Trung Quốc, Hoa Kỳ, Australia, New Zealand, Hàn Quốc, Nhật Bản…

Đối với thị trường Hoa Kỳ, trong tháng 10, quả bưởi tươi là loại trái cây thứ 7 của nước ta được phép nhập khẩu vào thị trường này. Một số loại trái cây khác như dừa, sầu riêng vẫn được xuất khẩu sang Hoa Kỳ, nhưng dưới dạng sản phẩm đông lạnh.

Về nhập khẩu, tính chung 10 tháng, kim ngạch nhập khẩu các mặt hàng nông, lâm, thủy sản ước trên 37,2 tỷ USD, tăng 5,8% so với cùng kỳ năm 2021. Trong đó, giá trị nhập khẩu các mặt hàng nông sản chính ước đạt trên 22,7 tỷ USD, tăng 2,9%; nhóm hàng thủy sản ước trên 2,3 tỷ USD, tăng 40,6%; nhóm lâm sản chính 2,7 tỷ USD, tăng 7,4%; nhóm sản phẩm chăn nuôi gần 2,7 tỷ USD, giảm 5,2%; nhóm đầu vào sản xuất ước 6,7 tỷ USD, tăng 11,3%.

Về thị trường nhập khẩu, khu vực châu Á chiếm 30,4% thị phầnnhập khẩu của Việt Nam. Tiếp theo là châu Mỹ chiếm 25,5%, châu Đại dương chiếm 7,3%, châu Âu chiếm 4,3% và châu Phi chiếm 3,4%. Achentina, Hoa Kỳ, Trung Quốc là 3 thị trường cung cấp hàng nông, lâm, thủy sản lớn nhất cho Việt Nam với thị phần trong tổng giá trị nhập khẩu lần lượt là 9,0%, 8,7% và 8,4%.

Bộ NN&PTNT thông tin thêm, về thị trường trong nước, trong tháng 10, giá lúa tại các tỉnh Đồng bằng sông Cửu Long tăng mạnh vào cuối tháng do nhu cầu sôi động trong khi nguồn cung khan hiếm. Giá thịt lợn tại miền Bắc và miền Trung tăng nhẹ, tại các tỉnh miền Nam diễn biến ổn định. 

Thị trường cà phê trong nước biến động giảm cùng xu hướng thị trường cà phê thế giới. Giá tiêu trong nước giảm do khó khăn về thị trường tiêu thụ, trong khi giá hạt điều tăng nhẹ tại Bình Phước. Giá sầu riêng tăng đáng kể do điều kiện xuất khẩu thuận lợi khiến nhu cầu gia tăng.

Về công tác hỗ trợ tiêu thụ nông sản, ổn định giá, Bộ NN&PTNT cho biết đang theo dõi sát biến động thị trường; tình hình sản xuất và nguồn cung, đặc biệt là các nông sản vào chính vụ  như nhãn, na, sầu riêng, xoài, thanh long, bơ… đồng thời, Bộ cũng tuyên truyền, thông tin và định hướng sản xuất, kinh doanh đáp ứng nhu cầu thị trường, hạn chế các yếu tố tác động đến giá cả, đảm bảo lợi ích của người dân.

Tiếp tục đẩy mạnh đàm phán, mở cửa thị trường xuất khẩu chính ngạch. Hỗ trợ, hướng dẫn người dân, doanh nghiệp tổ chức sản xuất, kinh doanh theo phương thức mới đảm bảo đáp ứng yêu cầu kỹ thuật của các thị trường. Tham gia, phối hợp, hỗ trợ các địa phương, đơn vị tổ chức các hoạt động xúc tiến thương mại, tiêu thụ nông sản.

Về nhiệm vụ những tháng cuối năm, Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn đặt mục tiêu tăng trưởng toàn ngành Nông nghiệp cả năm từ 2,9 - 3%, với kim ngạch xuất khẩu vào khoảng 43-44 tỷ USD. Ngoài ra, tỉ lệ che phủ rừng ổn định ở mức 42% và tỉ lệ xã đạt chuẩn nông thôn mới trên 73%; 255 đơn vị cấp huyện đạt chuẩn/hoàn thành nhiệm vụ xây dựng nông thôn mới. Để đạt mục tiêu này, ngành Nông nghiệp tiếp tục đẩy mạnh cơ cấu lại ngành, nâng cao năng suất, chất lượng, hiệu quả sản xuất, kinh doanh; tổ chức lại sản xuất theo vùng chuyên canh.

 

Bộ cũng đã hướng dẫn, định hướng các địa phương, nhất là các vùng trọng điểm sản xuất gạo, chăn nuôi, thủy sản... có kế hoạch sản xuất phù hợp với nhu cầu của thị trường; đồng thời, thúc đẩy phát triển chăn nuôi bền vững, an toàn sinh học, bảo đảm nguồn cung và ổn định giá thực phẩm, giá thịt lợn để góp phần giữ chỉ số CPI trong ngưỡng cho phép, nhất là dịp tết Nguyên đán Quý Mão năm 2023. Cùng với đó, phát triển hệ thống lưu thông tạo điều kiện cho người tiêu dùng có khả năng tiếp cận lương thực, thực phẩm trong mọi tình huống; tổ chức tốt việc mua, bán, dự trữ lương thực tại các địa phương.

Ý kiến bạn đọc...

Gửi
Hủy

Tái cơ cấu nông nghiệp: Chìa khóa xây dựng nông thôn mới ở Long An

DNTH: Long An coi tái cơ cấu nông nghiệp là chìa khóa để nâng cao các tiêu chí nông thôn mới (NTM). Tỉnh cũng đã chủ động ban hành các đề án phát triển ngành, lĩnh vực và sản phẩm nông nghiệp, đồng thời lồng ghép hiệu quả nguồn vốn...

Thúc đẩy chuyển đổi số, chuyển đổi xanh ngành nông nghiệp tại Tây Nguyên

DNTH: Theo TS. Trần Quý (Viện trưởng Viện Phát triển Kinh tế số Việt Nam) chuyển đổi số và chuyển đổi xanh là hai yếu tố quan trọng thúc đẩy sự phát triển bền vững ngành nông nghiệp tại Tây Nguyên.

Phát huy vai trò hợp tác xã trong đề án 1 triệu ha lúa chất lượng cao

DNTH: Phát triển hợp tác xã (HTX) là nền tảng cốt lõi để thực hiện thành công Đề án 1 triệu ha lúa chất lượng cao, phát thải thấp. Gia tăng số lượng thành viên HTX sẽ giúp mở rộng diện tích sản xuất, đồng thời tạo điều kiện...

Đẩy mạnh tín dụng cho nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao

DNTH: Sáng 12/11 tại Hà Nội, Viện chiến lược ngân hàng - Ngân hàng Nhà nước tổ chức Hội thảo khoa học “Tín dụng cho nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao, nông nghiệp sạch tại Việt Nam: Thực trạng và giải pháp” nhằm tìm kiếm giải...

Ứng dụng công nghệ vào chế biến, bảo quản sản phẩm góp phần nâng cao giá trị nông sản

DNTH: Ứng dụng công nghệ vào chế biến và bảo quản nông sản – thực phẩm đóng vai trò then chốt, mở ra cánh cửa cho sự phát triển bền vững của ngành nông nghiệp.

Thị trường Halal: Cơ hội mới cho nông nghiệp Việt Nam

DNTH: Theo Báo cáo Kinh tế Hồi giáo toàn cầu (SGIE) năm 2022, dự đoán chi tiêu cho sản phẩm và dịch vụ Halal sẽ đạt mức 1,67 nghìn tỷ USD vào năm 2025. Đây sẽ cơ hội để nông sản, thủy sản Việt Nam tiến vào thị trường Halal nếu như...

XEM THÊM TIN